Điện toán biên – Edge Computing

Dữ liệu – data – đang dẫn dắt internet vạn vật – IoT. Việc thu thập, gởi và xử lý lượng dữ liệu lớn đòi hỏi các tổ chức phải trở nên thông minh hơn, hành động nhanh chóng hơn và đưa ra quyết định sáng suốt hơn. Tuy nhiên, việc gởi tất cả data đến mạng lưới đám mây (cloud networks) có thể làm gia tăng độ trễ do quá trình truyền dẫn. Do đó, Điện toán biên (Edge Computing) đang phát triển để giải quyết vấn đề này. Điện toán biên sẽ di chuyển phần lớn việc xử lý dữ liệu tới gần các bộ xử lý của IoT hơn. Theo một nghiên cứu từ IDC, 45% tất cả dữ liệu được tạo ra bởi IoT sẽ được lưu trữ, xử lý, phân tích và hành động tại các biên (edge) của mạng vào năm 2020.

Điện toán biên là một mạng lưới các trung tâm xử lý dữ và lưu trữ dữ liệu cục bộ trước khi nó được gởi đến Trung tâm dữ liệu hoặc đưa lên các Đám mây. Nó tối ưu hóa các hệ thống truyền dẫn để tránh gián đoạn hoặc làm chậm việc gửi và nhận dữ liệu. Mọi thứ được tính toán để xử lý ngay tại các biên (Edge) của hệ thống mạng.

Với điện toán biên, mỗi thiết bị – có thể là bất cứ thứ gì từ máy tính xách tay, bộ cảm biến trong các thiết bị IoT cho đến các thiết bị miễn có hỗ trợ kết nối Internet – sẽ xử lý một số dữ liệu ngay tại chỗ thay vì đưa tất cả lên đám mây Bằng cách lưu trữ một số dữ liệu cục bộ, nó tăng tốc quá trình thu thập và chia sẻ một lượng lớn dữ liệu có thể được kết hợp với một thiết bị được kết nối IoT.

Điện toán đám mây nổi lên trên quy mô rộng rãi từ những năm 2000, mặc dù khái niệm cơ bản về chia sẻ tài nguyên qua mạng có thể truy cập toàn cầu đã có từ những năm 1960. Microsoft, AWS và Google là trong số nhà tiên phong trong cuộc đua điện toán đám mây, và họ cũng đang nói đến điện toán biên. Sự ra đời của điện toán đám mây cho phép tăng dung lượng lưu trữ và tính linh hoạt, tất cả với chi phí thấp hơn nhiều. Và bây giờ  điện toán biên là đưa mạng đến các khu vực xa trung tâm dữ liệu mà không làm mất tốc độ hoặc độ tin cậy.

Bạn có thể thấy các bài báo cho rằng điện toán biên là “kẻ giết đám mây”, nhưng thực sự, nó chỉ là một sự tiến hóa của mô hình đám mây và cả hai sẽ bổ sung cho nhau. Thuật ngữ “điện toán sương mù” (fog computing) cũng được sử dụng để mô tả những “đám mây” hoạt động gần biên hơn. Khi được sử dụng kết hợp, các kiến trúc điện toán đám mây, điện toán sương mù và điện toán biên có thể làm việc cùng nhau để lưu trữ và xử lý dữ liệu hiệu quả hơn.

Tùy thuộc vào vấn đề hoặc sự cần thiết của tổ chức liên quan đến dữ liệu mà nó thu thập, điện toán biên có thể có lợi hơn trong một số trường hợp, trong khi điện toán đám mây có thể tốt hơn ở những người khác. Ví dụ, thời gian phản ứng có thể rất quan trọng trong IoT, và việc gửi dữ liệu đến hoặc truy xuất dữ liệu từ đám mây có thể gây ra sự chậm trễ (mặc dù chúng có thể chỉ mất một phần nghìn giây) có thể có tác động tiêu cực đến hiệu quả của các thiết bị IoT. Điện toán biên có thể giúp loại bỏ hoặc giảm bớt sự chậm trễ đó.

Ngày nay, điện toán đám mây và điện toán biên được sử dụng song song, thúc đẩy phạm vi tiếp cận và phạm vi của những gì các mạng đám mây có thể cung cấp. Các công ty như AWS, Google và Microsoft đã công nhận tương lai của năng lực tính toán sẽ ở tại biên. Họ đang mở rộng các trung tâm dữ liệu của họ trên khắp thế giới để họ có thể phân cấp hơn và gần gũi hơn với các thiết bị, bất kể vị trí nào.